Khám phá bước chuyển mình thương hiệu mang tên XLIII Coffee

BRAZIL

CHUỖI GIÁ TRỊ

Ở Brazil không có người nông dân trồng cà phê điển hình. Brazil được biết đến với những trang trại khổng lồ cùng hệ thống thu hoạch và sấy cà phê chuyên nghiệp, giúp hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao. Cũng có nhiều nhà sản xuất quy mô vừa và nhỏ. Nông dân thường chế biến cà phê đến giai đoạn hạt cà phê còn tươi hay còn được gọi là hành lang bica ở Brazil. Ở giai đoạn này, cà phê không được phân loại hay làm sạch mà được giao trực tiếp đến kho của các đơn vị xuất khẩu hoặc hợp tác xã. Tại đây cà phê mới được tách, phân loại và đánh giá trước khi xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.

NHỮNG THÁCH THỨC

Brazil được biết đến với nền sản xuất cà phê ổn định, nhất quán với một hồ sơ nhất định; chocolate sữa và các loại hạt dẻ. Đây là hồ sơ rang được đa số các nhà rang mong muốn có được và sẵn sàng chi trả với mức giá tương đối cao, việc áp dụng mức giá này giúp hạn chế nguy cơ nông dân lựa chọn loại cà phê khác. Cà phê Brazil có những đặc tính vô cùng khác biệt với những gì chúng ta từng quen hoặc mong đợi khi sẵn sàng chi trả cho chi phí sản xuất.

Các nhà sản xuất phải quản lý nghiêm ngặt quá trình sản xuất để giảm thiểu chi phí, vì chi phí sản xuất ở Brazil cao hơn thị trường sẽ trả cho những loại cà phê này. Điều này có nghĩa là trừ khi có một thị trường an toàn cho một loại cà phê có thể được trả giá cao hơn, người sản xuất khó lòng có thể đầu tư vào chất lượng sản phẩm.

GIỚI THIỆU CHUNG

Brazil khẳng định danh tiếng là nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới. Việc sản xuất trải rộng trên 12 tiểu bang và 6 khu vực sản xuất khác nhau. Cà phê từ vùng Minas Gerais, nơi chịu trách nhiệm cho 50% sản lượng của các quốc gia.

Lịch sử cho biết cà phê du nhập vào Brazil vào những năm 1700 và bắt đầu mở rộng sản xuất từ miền Bắc đến các bang miền núi Đông Nam và phát triển mạnh ở đây vì nhiệt độ, lượng mưa lớn và mùa khô đặc biệt. Tương tự như vậy, việc bãi bỏ chế độ nô lệ vào thế kỷ 19 dẫn đến một làn sóng hàng triệu người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới và điều này cung cấp một lực lượng lao động lớn, có khả năng và sẵn sàng tham gia vào hoạt động canh tác, trồng trọt.

Năm 1820, Brazil chiếm 30% nguồn cung cà phê của thế giới, nhưng đến năm 1920, nó đã chiếm 80% tổng lượng cà phê toàn cầu.

Bắt đầu từ những năm 1840, Brazil đã vươn lên trở thành nhà sản xuất cà phê ưu việt trên thế giới và tiếp tục là nhà sản xuất cà phê lớn nhất hiện nay, hiện kiểm soát khoảng 30% sản lượng quốc tế. Cho đến gần đây, danh tiếng của Brazil trong thế giới cà phê vẫn nằm ở sản lượng sản xuất khổng lồ nhưng thời thế đang thay đổi.

Những nông dân trồng cà phê của đất nước ngày nay là một trong số những người được trao quyền nhiều nhất trên thế giới, nhờ sự gia tăng ổn định về sức mạnh kinh tế xã hội của Brazil kể từ giữa những năm 1990; một số tác động giảm nhỏ chính là tăng trình độ học vấn, tiền lương và mức sống chung. Những yếu tố này đã dẫn đến việc nông dân có khả năng lớn hơn để tập trung vào việc cạnh tranh trong các thị trường đặc sản, thay vì chỉ đảm bảo trang trại của họ có hiệu quả kinh tế. Bằng chứng của điều này là ngày càng nhiều nông dân đang thử nghiệm các phương pháp chế biến khác nhau và trồng các giống cây lạ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong các thị trường đặc sản.

Từ thế kỷ 19, thời tiết ở Brazil đã là một trong những chủ đề thảo luận sôi nổi nhất giữa các thương nhân và nhà môi giới, và là yếu tố quyết định chính trong xu hướng thị trường toàn cầu và giá cả ảnh hưởng đến thị trường cà phê-hàng hóa. Các sự cố về băng giá và mưa lớn đã khiến sản lượng cà phê giảm sút và suy giảm trong vài thập kỷ qua, nhưng quốc gia này vẫn giữ vững vị trí là một trong hai nhà sản xuất cà phê lớn nhất hàng năm, cùng với Colombia.

Ở Brazil, nông dân trồng cà phê hợp tác với nhau hoặc hợp tác xã hoặc nhà xuất khẩu tư nhân, trồng và thu hoạch anh đào, chế biến ướt và sấy khô tại chỗ, sau đó bán cà phê dưới dạng giấy da cho hợp tác xã đối tác hoặc nhà xuất khẩu của họ.

GIỐNG CÂY TRỒNG

Một trong những điều thú vị khác mà Brazil đã đóng góp cho cà phê trên toàn thế giới là số lượng các giống, giống lai đột biến và giống cây trồng đã phát triển từ đây, hoặc tự phát hoặc do phòng thí nghiệm tạo ra. Caturra (một đột biến lùn của giống Bourbon), Maragogype (một dẫn xuất của Typica quá khổ), và Mundo Novo (Bourbon-Typica cũng là một cây mẹ của Catuai, do các nhà khoa học nông nghiệp Brazil phát triển) chỉ là một vài trong số dường như vô số loại cà phê có nguồn gốc từ Brazil và hiện nay đã phổ biến khắp các nước trồng cà phê.

CANH TÁC VÀ SẢN XUẤT

Cà phê được trồng và quản lý nông học theo những cách khác nhau tùy thuộc vào loại hình hoạt động của nhà sản xuất, quy mô và mục tiêu chất lượng. Có rất nhiều cơ hội tiếp cận kiến thức về nông học đối với các nhà sản xuất Brazil, đôi khi điều này có giá trị và đôi khi nó bị hiểu sai.

Nếu các nhà sản xuất muốn cải thiện hoạt động sản xuất, họ có thể tiếp cận với các công cụ để làm như vậy, hạn chế lớn nhất là nguồn tài chính để đầu tư.

THU HOẠCH VÀ PHÂN LOẠI

gia này đã áp dụng các phương tiện sáng tạo cụ thể và ở một mức độ nhất định để đạt được cả quá trình hái và chế biến theo cách thức có tổ chức và hiệu quả cao nhất có thể, và cơ cấu trung bình trang trại hoặc bất động sản được thiết kế xung quanh việc sử dụng các hệ thống này và tối đa hóa tiềm năng năng suất trên mỗi ha.

Chi phí sản xuất ở Brazil đã tăng đáng kể trong những năm qua do chi phí sinh hoạt chung tăng. Chi phí nhân lực là một trong những phần chi phí tốn kém nhất của việc sản xuất cà phê, ở các trang trại lớn và có địa hình bằng phẳng, hái bằng máy là một lựa chọn khả thi. Đối với các trang trại nhỏ hơn hoặc trang trại nằm trên địa hình đồi núi, điều này là không thể và nông dân phải tối ưu hóa việc thu hoạch càng nhiều càng tốt với nguồn lực hạn chế. Ở Brazil, người ta thường thấy trái cà phê đủ loại và đủ màu sắc trong cà phê được hái và sấy khô, niềm tin phổ biến trong nội bộ ngành công nghiệp là chúng sẽ được phân loại qua quá trình xay xát. Thực tế là quá đắt nếu chỉ chọn những quả anh đào chín mọng so với giá cà phê Brazil bán trên thị trường. Các nhà sản xuất báo cáo chênh lệch chi phí gấp 3 lần so với quy trình hái tiêu chuẩn.

CHẾ BIẾN

Brazil sử dụng các phương pháp sơ chế cà phê đa dạng: ướt, khô và bán ướt, với đa phần là phương pháp tự nhiên.

Trong lịch sử ở Brazil, việc đơm hoa kết trái  đồng đều cho phép các nhà sản xuất Brazil hái bằng máy hoặc thu hoạch ngay trong một lần, hạn chế chi phí thu hoạch khá nhiều. Trong những năm gần đây, sự thay đổi của khí hậu giữa các năm đã làm cho việc này trở nên khó khăn hơn, và có nghĩa là có nhiều quả anh đào chưa chín và quá chín xen lẫn với quả chín. Nông dân ở Brazil tin rằng những loại cà phê này được làm sạch trong quá trình chế biến sau sản xuất, trong nhà máy.

Đây là một thách thức bởi vì chúng ảnh hưởng khá lớn đến chất lượng sản phẩm.

SẤY KHÔ

Việc sấy khô ở Brazil gần như hoàn toàn được thực hiện trên sân bê tông, trong một số trường hợp nhà sản xuất sắp đặt bố trí rất đơn giản, cà phê sơ chế bằng phương pháp tự nhiên thậm chí có thể được sấy trực tiếp trên mặt đất. Một số đơn vị sử dụng cả sân và giàn sấy của châu Phi.

Ở Minas Gerais vào thời điểm rất nhiều cà phê đang trong quá trình sấy khô, nhiệt độ ban ngày có thể đạt mức cao khoảng 25 độ C, cả buổi tối và buổi sáng, trời có thể rất lạnh. Trong khi các giàn sấy cao cho phép thông khí, các sân sẽ hấp thụ nhiệt từ ban ngày và truyền nhiệt độ này vào nhiệt độ lạnh của đêm và sáng sớm, không cho phép cà phê giảm nhiệt độ ở mức độ giống như cà phê được sấy trên giàn sấy ở châu Phi.

Rate this post